Sodium (Na)
Là nguyên tố cần thiết cho các cây chịu mặn (halophytic), các cây này tích lũy muối trong các không bào để duy trì tính trương và sự sinh trưởng. Tính mọng nước của các cây này đôi khi gia tăng do hàm lượng Na tăng. Các cây trồng cần Na để sinh trưởng tối hảo như cây cần tây, củ cải, củ cải đường. Các ảnh hưởng tích cực cho sự sinh trưởng của Na cũng xảy ra với bắp cải, kale, Kohlrabi, mustard và cải dầu. Sự gia tăng sinh trưởng do Na của các cây chịu mặn được cho là có liên quan đến sự gia tăng tính trương của tế bào trong cây.
|
Sodium (Na) |
Cây trồng hấp thu Na dưới dạng Na+, và nồng độ Na+ trong cây rất thay đổi, từ 0,01 – 10 % trong mô lá. Các cuống lá củ cải đường thường chứa khoảng 10 % Na+. Các cây có kiểu quang hợp như chu kỳ C4 cần có Na như là nguyên tố dinh dưỡng cần thiết. Na cũng có vai trò trong việc trao đổ chất crassulacean acid (các cây họ thuốc bỏng). Thiếu Na sẽ gây ra sự thay đổi quá trình cố định CO2 của chúng từ C4 thành C3. Cung cấp Na đầy đủ có thể làm cho các cây trồng này giử quá trình cố định C4 bình thường của chúng.
Củ cải đường thường có phản ứng rất đặc biệt với Na, Na ảnh hưởng đến các quan hệ về nước trong cây và làm tăng tính chống chịu của củ cải đường với hạn. Đất có Na thấp thì củ cải đường thường có màu xanh tối, dày, xám xịt. Cây sẽ bị héo nhanh hơn và có thể mọc theo chiều ngang từ đỉnh. Cũng có thể bị bệnh chết khô giữa các gân lá tương tự như triệu chứng thiếu K. Một số ảnh hưởng được cho là do Na cũng có thể liên quan đến Cl- bởi vì nguồn dinh dưỡng Na trong đất thường là NaCl.
Na trong tự nhiên
Nguồn natri nitrat tự nhiên lớn nhất được tìm thấy ở Chile và Peru, nơi các muối nitrat kết rắn lại trong các trầm tích gọi là quặng caliche.
|
Caliche — sedimentary rock, Ridgecrest, Kern County, California |
Trong hơn một thế kỷ, nguồn cung cấp chủ yếu cho thế giới được khai thác bằng thuốc nổ từ hoang mạc Atacama ở bắc Chile cho đến khi, sang thế kỷ 20, hai nhà hoá học người Đức Fritz Haber và Carl Bosch phát triển một quá trình sản xuất amonia từ không khí theo quy trình công nghiệp (xem quy trình Haber). Khi chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ, nước Đức bắt đầu biến đổi amonia từ quy trình này sang diêm tiêu Chile nhân tạo, rất thiết thực như nguồn nguyên liệu tự nhiên trong việc sản xuất thuốc súng và các loại vũ khí khác. Vào thập niên 1940, quá trình chuyển đổi này gây nên một kết quả đầy kịch tính trong nhu cầu natri nitrat trong tự nhiên.
Chile vẫn là nguồn dự trữ caliche lớn nhất, với nhiều mỏ đang hoạt động ở các vùng Pedro de Valdivia, María Elena và Pampa Blanca, và ở đó nó thường được mệnh danh là vàng trắng. Natri nitrat, kali nitrat, natri sunfat và iod vẫn được khai thác bằng quá trình caliche. Cộng đồng dân cư vùng mỏ Humberstone và Santa Laura được tuyên bố là di sản thế giới vào năm 2005.
Natri nitrat được sản xuất trong công nghiệp bằng phản ứng trung hoà axit nitric với natri cacbonat.
Ứng dụng của Na
Natri nitrat được dùng trong phạm vi rộng như là một loại phân bón và nguyên liệu thô cho quá trình sản xuất thuốc súng vào cuối thế kỷ 19. Nó có thể kết hợp với sắt hydroxide để tạo nhựa thông.
Natri nitrat không nên bị lầm lẫn với hợp chất liên quan, natri nitrit.
Nó có thể dùng trong sản xuất axit nitric khi phản ứng với axit sunfuric rồi tách axit nitric ra thông qua quá trình chưng cất phân đoạn, còn lại là bã natri hydrosunfat. Những người săn vàng dùng natri nitrat để điều chế nước cường toan có thể hoà tan vàng và các kim loại quý khác.
Ứng dụng ít gặp hơn là một chất oxi hoá thay thế trong pháo hoa như là một sự thay thế kali nitrat chủ yếu có trong thuốc nổ đen và như một thành phần cấu tạo trong túi lạnh.
Natri nitrat còn được dùng chung với kali nitrat cho việc bảo quản nhiệt, và gần đây, cho việc chuyển đổi nhiệt trong các tháp năng lượng mặt trời.
Ngoài ra nó còn dùng trong công nghiệp nước thải cho sự hô hấp tuỳ ý của vi sinh vật. Nitrosomonas, một loài vi sinh vật, hấp thụ nitrat thay vì oxi, làm cho loài này có thể phát triển tốt trong nước thải cần xử lý.